Trao đổi với Người Dẫn Đầu, ông Nguyễn Quốc Việt - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh, động lực tăng trưởng cho giai đoạn từ nay đến cuối năm vẫn phải đến từ khu vực doanh nghiệp và đầu tư xã hội. Do vậy, theo ông, phải kiên quyết khai thông sức sản xuất, kinh doanh, tạo mọi điều kiện thông thoáng về môi trường kinh doanh, phục hồi niềm tin từ sản xuất đến tiêu dùng trong và ngoài nước…
.jpg?ts=20230805110138)
GDP quý I/2023 của Việt Nam tăng trưởng rất thấp, chỉ khoảng 3,32%. Đặc biệt, khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng âm; xuất khẩu suy giảm - con số thấp hơn nhiều so với các dự báo trước đó. Theo ông, đâu là nguyên nhân?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, nhưng về cơ bản, tôi cho rằng sẽ có một số nguyên nhân chính sau:
- Đầu tiên, động lực cầu suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là đơn hàng xuất khẩu từ các bạn hàng chủ lực (thường là các quốc gia phát triển) do suy thoái kinh tế trên nền lạm phát vẫn neo cao, cầu tiêu dùng trong nước cũng chưa thực sự phục hồi như kỳ vọng.
- Nền lãi suất tăng cao cuối 2022 cộng với chi phí sản xuất đầu vào vẫn neo cao, bào mòn biên lợi nhuận và đẩy nhiều ngành/doanh nghiệp vào thua lỗ phá sản và buộc phải tạm dừng hoạt động.
- Ngoài ra, khủng hoảng trái phiếu và khu vực bất động sản đã khiến ngành này co cụm và vì nhiều lý do khác nhau không thể triển khai dự án, không đẩy được sản phẩm ra thị trường dẫn đến nguy cơ nợ xấu, thua lỗ, gây ảnh hưởng và tác động tâm lý dây chuyền sang một số lĩnh vực khác.
- Cùng với đó, một số đầu tàu kinh tế cũng mất động lực tăng trưởng. Ngoài những nguyên nhân kể trên thì còn do yếu kém cơ sở hạ tầng kéo dài, chi phí tuân thủ và thực thi chính sách tăng cao, khiến nản lòng các nhà đầu tư.
- Cuối cùng, không thể không kể đến yếu tố cạnh tranh quốc tế của các quốc gia trong khu vực, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt, thậm chí một số lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ bị cạnh tranh ngay trên sân nhà, khiến cho năng lực sản xuất và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế bị ảnh hưởng.
Trong quý I năm nay, đáng lo ngại khi cả nước có khoảng 60.000 doanh nghiệp rời khỏi thị trường, nhiều hơn con số 57.000 doanh nghiệp được thành lập. Ông có nhận xét gì về điều này? Vì sao các doanh nghiệp gặp khó khăn như vậy?
Nhìn vào 2 con số trên có thể thấy:
- Doanh nghiệp cực kỳ khó khăn, biên lợi nhuận bị bào mòn do chi phí đầu vào tăng cao, nhất là chi phí vốn, dẫn đến phải tạm dừng và giải thể hàng loạt.
- Nhìn bức tranh kinh tế ở thời điểm hiện tại, có thể thấy triển vọng thị trường kém, cầu cả trong và ngoài đều suy giảm khiến động lực đầu tư, niềm tin thị trường không cao.
- Ngoài ra, bối cảnh lãi suất neo cao khiến thị trường trường vốn méo mó, cá nhân/doanh nghiệp sẽ chỉ phòng thủ vào các tài sản đầu cơ hoặc gửi ngân hàng thay vì dồn lực vào sản xuất/kinh doanh chịu nhiều rủi ro hơn.
- Ngoài các nguyên nhân vĩ mô như kể trên thì còn có nguyên nhân đến từ môi trường kinh doanh kém cải thiện, nhiều điều kiện kinh doanh chuyên ngành ngặt nghèo (ví dụ phòng cháy chữa cháy) gây nản lòng và buộc các doanh nghiệp phải dừng hoạt động, thậm chí phá sản hàng loạt.
- Một lý do quan trọng nữa là đa phần các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và năng lực cạnh tranh còn rất hạn chế. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp đăng ký, tạo ra khoảng 60% GDP, hơn 90% việc làm cho người lao động (theo Sách trắng doanh nghiệp). Báo cáo của VEPR cũng chỉ ra một trong những chỉ số phản ánh năng suất và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp ngành điện tử là chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của khu vực FDI cao hơn hẳn (thậm chí vượt trội) so với khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân của Việt Nam.
Kinh tế khó khăn nhưng thu ngân sách lại tăng mạnh, theo ông, chính sách tài khóa nên thực hiện thế nào để hỗ trợ nền kinh tế giai đoạn hiện nay?
Thu ngân sách 3 tháng đầu năm tăng không có gì mâu thuẫn với tình hình kinh tế quý I, do nhiều khoản quyết toán thu từ hoạt động đã xong trong cuối 2022 nay mới cụ thể hóa, nhất là thuế và các khoản thu nội địa.
Nhìn rõ nguyên nhân suy giảm kinh tế 3 tháng đầu năm như đã phân tích ở trên, đặc biệt là cầu sụt giảm cả trong lẫn ngoài nước, trong khi chi phí đầu vào tăng cao, bào mòn biên lợi nhuận, rủi ro vay nợ xấu dẫn đến khó khăn dây chuyền, do vậy, chính sách tài khóa có 2 con đường cơ bản:
Đầu tiên, miễn giảm/hoàn thuế/phí: Cần nhanh chóng thông qua các chính sách miễn hoãn, giãn phí/thuế của doanh nghiệp, đồng thời nối lại chính sách miễn 2% thuế VAT, tạm dừng các chủ trương tăng thêm thuế và gánh nặng chi tiêu từ thuế (tăng thuế tiêu thụ đặc biệt).
Tiếp đó, thúc đẩy đầu tư công để tạo hiệu ứng lan tỏa: Điều này nhiều người nói rồi, nhưng vấn đề khả thi đến đâu khi tốc độ giải ngân 3 tháng đầu năm mới đạt 10%.

Vậy, theo ông, cần những giải pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế? Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa đề xuất thành lập Tổ công tác đặc biệt tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp tại các địa phương, ông đánh giá thế nào về điều này và làm sao để có hiệu quả thực chất?
Sau khi kết quả kinh tế quý I, có thể thấy mâu thuẫn lớn là khả năng Việt Nam có thể duy trì được lạm phát trong chỉ tiêu, nhưng lãi suất huy động và từ đó cho vay doanh nghiệp lại quá cao (lạm phát năm 2022 được kiểm soát ở mức 3,15%, định hướng năm 2023 dưới 4,5%). Tuy nhiên, trong khi từ giữa tháng 10/2022 đến nay, mặt bằng lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng từ 7-9,5%/năm. Như vậy, lãi suất huy động vốn của các ngân hàng cao gấp đôi, gấp ba so với lạm phát. Điều này cũng đồng nghĩa, lãi suất cho vay doanh nghiệp cũng rất cao, trên 10% - mức này sẽ quá sức chịu đựng của doanh nghiệp. Vậy mấu chốt với các doanh nghiệp nói chung, nhất là doanh nghiệp lĩnh vực sản xuất và dịch vụ thiết yếu, là giảm lãi suất để có chi phí vốn phù hợp.
Ngoài ra, cần ổn định vĩ mô, hỗ trợ giảm chi phí kinh doanh, phục hồi cầu tiêu dùng, kích thích phát triển sản xuất, vừa hướng xuất khẩu vừa phục vụ tốt các mặt hàng trong nước, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng mà Việt Nam có thế tự lực tự cường. Đồng thời, với những mặt hàng này, cũng nên xem xét giảm bớt các chi phí đóng góp như phí/thuế. Không nên vì mục tiêu ngân sách trong ngắn hạn mà tìm cách tăng thu thuế (nhất là Thuế tiêu thụ đặc biệt).
Cùng với đó, giải tỏa các ách tắc về môi trường kinh doanh, đặc biệt các quy chuẩn quy định kinh doanh quá cao, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hoặc cần phải có thời gian chuẩn bị về đầu tư của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp giải tỏa các yêu cầu không thể thực hiện, nhằm nhanh chóng quay lại sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Theo ông, đâu là động lực tăng trưởng năm 2023? Với bức tranh kinh tế “kém tươi” như vậy, tăng trưởng cả năm liệu có đạt mục tiêu 6,5% đề ra?
Động lực tăng trưởng vẫn phải đến từ khu vực doanh nghiệp và đầu tư xã hội. Do vậy, phải kiên quyết khai thông sức sản xuất, kinh doanh, tạo mọi điều kiện thông thoáng về môi trường kinh doanh, phục hồi niềm tin từ sản xuất đến tiêu dùng trong và ngoài nước, từ đó giải pháp chính sách cần làm là:
Có chính sách tiền tệ phù hợp và linh hoạt từ phía Ngân hàng Nhà nước để vừa đảm bảo ổn định vĩ mô, vừa hỗ trợ giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp, khai thông ách tắc thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn tín dụng cho hệ thống.
Ngoài ra, cũng cần rà soát tính hiệu quả và khả thi, qua đó thúc đẩy tiến độ thực thi các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế đã được thông qua trong năm 2022 (ví dụ điển hình nhất là xem xét gói hỗ trợ 2% lãi suất). Cuối cùng, tiếp tục triển khai các giải pháp an sinh xã hội, các chính sách miễn, giảm thuế, phí... như đã đề xuất ở trên.
Động lực thứ 2 đến từ chính sách tài khóa hợp lý và linh hoạt của Nhà nước nhằm hỗ trợ phục hồi tăng trưởng, bao gồm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện điều hòa hiệu quả nguồn vốn đầu tư công từ nguồn vốn của Chương trình phục hồi và nguồn vốn từ Kế hoạch đầu tư công trung hạn; đẩy nhanh một số chương trình hỗ trợ mới ví dụ như chương trình xây nhà ở xã hội và hỗ trợ vốn vay mua nhà cho lao động thu nhập trung bình thấp.
Ngoài ra, cần nâng cao tổng thể năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ sản xuất xuất khẩu, chú trọng khai thác các thị trưởng mới nổi, thị trường khu vực, trong bối cảnh thị trường truyền thống và các nước phát triển đang bị suy giảm. Ngoài ra, cần nỗ lực hơn nữa để phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước trong chuỗi giá trị sản xuất.
Cuối cùng, Nhà nước cần xây dựng chính sách mới để các doanh nghiệp tư nhân trong nước có môi trường phát triển tốt hơn, cải thiện năng suất và hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm hoạt động, quản lý từ các doanh nghiệp nước ngoài thông qua các chính sách kết nối giữa 2 khu vực kinh tế này.
Bản thân các doanh nghiệp tư nhân cũng cần phải tự đổi mới, thiết lập được hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và đủ sức bắt tay với tập đoàn công nghệ quốc tế lớn để tham gia nhiều hơn nữa trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Cụ thể hơn, đối với doanh nghiệp, ông có khuyến nghị như thế nào để họ có thể thích nghi và kinh doanh trong thời điểm hiện tại?
Theo kinh nghiệm những năm khủng hoảng tài chính châu Á (1997-1998), các vấn đề doanh nghiệp cần xem xét lại ở thời điểm hiện tại là cải tổ mô hình quản trị doanh nghiệp theo hướng minh bạch, liêm chính, kiên quyết loại bỏ mô hình kinh doanh nặng tính gia đình trị (phải áp dụng các chuẩn mực và mô hình quản lý hiện đại).
Cùng với đó, doanh nghiệp cũng cần đổi mới công nghệ và nắm bắt xu hướng mô hình kinh doanh trong ngành/lĩnh vực của mình để từng bước tham gia tốt hơn chuỗi sản xuất-kinh doanh của thế giới. Tùy bối cảnh và nguồn lực hiện tại mà cần có cách tư vấn xây dựng chiến lược/lộ trình phù hợp, không có sự giống nhau của mọi doanh nghiệp hay ngành hàng, ví dụ như chuyển đổi số bây giờ là mốt, nhưng cứ hô hào và áp dụng chung mô hình thì cũng không hẳn là đúng; doanh nghiệp cần thực sự xác định được tự chủ kinh doanh.
Kinh doanh có đạo đức là nền tảng của mọi loại hình doanh nghiệp; các chiến lược kinh doanh dựa dẫm vào các hỗ trợ/đặc quyền hoặc thông qua thủ đoạn, đi đêm, lợi ích nhóm rồi cũng sẽ gặp các rủi ro khác nhau, hoặc các nguồn lực bị méo mó, chiến lược kinh doanh cũng bị biến dạng, từ đó hiệu quả đầu tư cũng không đạt được như kỳ vọng.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: Vietcombank (thực hiện)