GDP 2023-2024: THÁO BỎ NÚT THẮT, KHƠI THÔNG NGUỒN LỰC

BÌNH LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở THỜI ĐIỂM HIỆN TẠI, PGS.TS TRẦN ĐÌNH THIÊN, NGUYÊN VIỆN TRƯỞNG VIỆN KINH TẾ VIỆT NAM CHO BIẾT, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐANG TỐT THEO HƯỚNG DÙ KHÔNG CÓ ĐỘT PHÁ NHƯNG QUÝ SAU TĂNG CAO HƠN QUÝ TRƯỚC TRONG KHI ĐẦU TƯ CÔNG GIẢM, ĐIỀU ẤY CÓ NGHĨA LÀ CÓ “ÔNG” KHÁC ĐỠ CHO ĐẦU TƯ CÔNG NHƯ FDI, KINH TẾ TƯ NHÂN. ÔNG THIÊN NHẤN MẠNH, PHẢI KHƠI THÔNG CÁC NGUỒN LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG.

 

Cập nhật về các kịch bản cho tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh 3 kịch bản. Kịch bản 1: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5,0%, quý IV cần tăng 7,0% (quý IV/2022 tăng 5,92%). Kịch bản 2: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5,5%, quý IV cần tăng 8,8%. Kịch bản 3: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 6%, quý IV cần tăng 10,6%.

 

  •  Tháo bỏ những nút thắt

Theo quan điểm của ông, trong 3 kịch bản về tăng trưởng GDP mới đây, thì kinh tế Việt Nam từ nay tới cuối năm sẽ thiên về kịch bản nào?

Nếu tính đủ mọi khả năng và tính tối ưu trong phát triển, tôi xin chọn kịch bản thấp nhất bởi chúng ta còn nhiều việc cần phải làm chứ không chỉ riêng việc đảm bảo mục tiêu tăng trưởng. Ngay cả khi chọn kịch bản thấp nhất, thì mọi thứ vẫn trong giả định quý sau tăng cao hơn quý trước mới có thể đảm bảo. Còn lại, nếu nền kinh tế có diễn biến nào đó bất ngờ ngoài khả năng dự liệu thì có thể tăng trưởng còn khó đạt được theo kịch bản này.

 

 

Liệu điều này có quá bi quan không, thưa ông?

Tôi muốn nhấn mạnh một số vấn đề. Đầu tiên, hiện tại bối cảnh thế giới và khu vực đang bộc lộ nhiều vấn đề khó ngoài tầm và không dự báo được. Kinh tế thế giới dự báo đà suy giảm và ảnh hưởng tới Việt Nam. Đáng nói, nền kinh tế toàn cầu cũng chưa thấy những dấu hiệu của sự phục hồi nên khó khăn sẽ càng lớn hơn khi chúng ta muốn ngược chiều trong tăng trưởng.

Quay trở lại với nền kinh tế Việt Nam, nhìn vào các động lực tăng trưởng, xuất khẩu rõ ràng là chưa bao giờ giảm sâu và kéo dài như bây giờ dù một số ngành đã có khởi sắc nhưng đến giờ vẫn suy giảm 4,2% so với năm ngoái.

Hiện tại, tình hình có cải thiện nhưng tốc độ và quy mô chưa ổn định, không đồng đều và cũng chưa thể bứt phá lên so với trước. Nguyên nhân chủ yếu do khó khăn bên ngoài, đặc biệt là những nước khách hàng châu Âu suy giảm nhiều so với trước, Trung Quốc cũng tương tự…
Không kiểm soát được các yếu tố bên ngoài nên chúng ta phải thích nghi, tận dụng cơ hội thị trường dù là mong manh, sơ khởi nhưng sang năm kỳ vọng sẽ tốt hơn. Đây là thực tế không thể phủ nhận.


Về tiêu dùng, dù được xem là cứu cánh của động lực tăng trưởng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn cần phải xử lý. Trong tiêu dùng, bán lẻ là chủ yếu nhưng lại đang có xu hướng suy giảm. Mấy tháng đầu năm, bán lẻ tăng trưởng 15-17% nhưng gần đây chỉ còn tăng 11-12% và cuối quý III đà tăng trưởng đang tiếp tục suy giảm, cho thấy nếu đây là động lực thì động cơ đang yếu. Do đó, cần phải làm gì để tăng động cơ, cải thiện để chạy nhanh hơn chứ không dưới góc nhìn cứu cánh để bằng lòng.

Trong khi đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang tiếp tục lấn lướt khu vực trong nước. Hiện doanh nghiệp FDI chiếm tới 75% kim ngạch xuất khẩu, hơn 50% giá trị công nghiệp và nếu ngành bán lẻ họ cũng “lấn sân” nữa thì cần phải suy nghĩ.


Như vậy, động lực cho tăng trưởng kinh tế đang có dấu hiệu suy giảm kéo dài, thưa ông?

Đúng như vậy, động lực tăng trưởng của nền kinh tế có xu hướng suy giảm liên tục và kéo dài. Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam đang chứa đựng nghịch lý. Trong đó, doanh nghiệp được cho là giỏi chống chịu và sống dai nhưng lại chậm lớn và khó trưởng thành; nền kinh tế “khát vốn” nhưng lại khó hấp thụ vốn; tăng trưởng GDP cao song lạm phát thấp; lạm phát thấp nhưng lãi suất cao.

Cùng với đó, chỉ số quản trị mua hàng (PMI) cũng cho thấy nền kinh tế còn nhiều khó khăn. PMI tháng 10 tiếp tục dưới ngưỡng 50 điểm, đơn đặt hàng mới tăng yếu. Nguyên nhân dẫn đến những nghịch lý trên là do nền kinh tế ở trong tình trạng ách tắc các nguồn lực, khiến chúng không thể chuyển hóa thành động lực phát triển, dẫn đến “cơ thể” của nền kinh tế bị suy yếu, tổn thương và bất ổn.

Để bảo đảm lưu thông các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường, cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin-cho” và “hành chính”, cần ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (có tính cạnh tranh). Các thị trường đầu vào càng đồng bộ, hiệu quả phát triển càng cao.

Để làm được điều này, Nhà nước cần đảm bảo hạ tầng thông suốt, cơ chế thông thoáng và vận hành thông minh, trong đó trực tiếp hướng tới giải quyết những vấn đề căn cốt đang đặt ra cho cho nền kinh tế Việt Nam ở khía cạnh tạo động lực và giải phóng năng lực phát triển.

Thời gian gần đây, bên cạnh việc nỗ lực chỉnh sửa - tháo gỡ - thay đổi những trói buộc và cản trở của hệ thống cơ chế, chính sách hiện hành, Đảng và Nhà nước đang rất tích cực nhận diện, định hình “chân dung mới” của nền kinh tế theo nguyên tắc hướng tới tương lai, định hướng xây dựng các nguồn lực và động lực phát triển mới.

Cách lựa chọn đường lối này là đúng đắn và cần phải coi đây là cách thức chủ đạo để xây dựng và phát triển năng lực quốc gia. Việc Chính phủ đưa ra cam kết Việt Nam sẽ đạt mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050 tại Hội nghị COP 26 là một minh chứng điển hình cho tầm nhìn và cách tiếp cận phát triển mới của Việt Nam, đi sau những nỗ lực vượt lên tiến kịp thế giới, tiến cùng thời đại.
Tựu trung, tôi cho rằng chúng ta không nên quá cố gắng cho tăng trưởng.



Vì sao chúng ta không nên quá cố gắng, thưa ông?

Vì lực lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đang tăng lên so với cùng kỳ năm ngoái. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng 10, cả nước có hơn 15,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 21,7% so với tháng trước và tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh đó, cả nước còn có 5,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 3,1% so với tháng trước và tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2022; có 5.501 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 33,4% và tăng 35,6%; có 4.898 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 7,1% và tăng 16,6%; có 1.501 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 4,2% và giảm 6,3%.

Tính chung 10 tháng năm 2023, cả nước có 183,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 18,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 146,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 14,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Ngoài ra, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, họ chắc chắn sẽ không đóng góp cho tăng trưởng nữa nhưng còn số doanh nghiệp mới thành lập, họ cũng không thể đóng góp ngay cho tăng trưởng được mà phải chờ thời gian mới có thể đi vào hoạt động ổn định và tạo ra tăng trưởng.
Cùng với đó, quan sát nền kinh tế, tôi cũng nhận ra rằng, hoạt động của hộ kinh doanh cũng đang đìu hiu hơn. Trong khi đó, hộ kinh doanh lại đóng góp lớn vào tăng trưởng nên nền kinh tế sẽ khó càng khó.

Như vậy, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng khó có đột phát trong tăng trưởng cuối năm nay.

 

  • Khơi thông các nguồn lực

Vậy, cần làm thế nào để có được tăng trưởng ở mức cao nhất có thể, thưa ông?

Phải khơi thông các nguồn lực, đây là vấn đề quan trọng nhất bởi các nguồn lực hiện nay đang gặp nhiều trở ngại. Ví dụ như vấn đề tăng trưởng tín dụng vừa rồi cho thấy sự suy giảm các nguồn vốn chứ không phải tăng nguồn vốn thực. Rồi với thị trường vốn nói chung, dù đã có nhiều chính sách khơi thông nhưng niềm tin với thị trường chứng khoán và với trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa được phục hồi. Điều này khiến các doanh nghiệp gặp khó trong sản xuất kinh doanh bởi họ vẫn đang rất khó khăn trong huy động vốn.

Tiếp đó, với thị trường đất đai, các rào cản vẫn còn, tình trạng doanh nghiệp khó khăn trong tiếp cận đất đai vẫn là vấn đề nổi cộm đáng chú ý.

Với môi trường kinh doanh, các rào cản trong tiếp cận chính sách vẫn còn, các quy định chồng chéo pháp luật, khiến doanh nghiệp gặp khó khi không biết phải tuân theo quy định nào.

Tựu trung, muốn doanh nghiệp yên tâm kinh doanh và nền kinh tế mau chóng ổn định trở lại thì việc khơi thông các nguồn lực là bắt buộc phải làm, dù rất khó khăn.

Và cuối cùng, phải hoá giải tâm lý sợ sai của cán bộ.

Nhưng việc hoá giải tâm lý sợ sai không phải vấn đề dễ khi cán bộ “sợ sai”, “cầu an” hay đổ thừa cho luật lệ, chính sách; nền kinh tế thiếu vắng các dự án lớn và đặc biệt là bệ đỡ của kinh tế Nhà nước đang khó khăn... Bức tranh nền kinh tế thời gian tới sẽ lấy gì để có gam màu sáng, lấy gì là động lực tăng trưởng mới?

Xu hướng chậm giải ngân tôi để ý có từ nhiều năm rồi, điều đó có nghĩa là nó nằm trong cơ chế, chính sách, luật pháp chứ không phải nằm ở chỉ một vài bộ, ngành, lĩnh vực hoặc do cá nhân cụ thể. Muốn gỡ được phải gỡ hệ thống, nó rất lâu, tốn kém nhưng không thể không làm.

Tăng trưởng kinh tế đang tốt theo hướng dù không có đột phá nhưng quý sau tăng cao hơn quý trước trong khi đầu tư công giảm, điều ấy có nghĩa là có “ông” khác đỡ cho đầu tư công như FDI, kinh tế tư nhân.

Vai trò kinh tế tư nhân là tốt thật, khẳng định thật! Đó là sự thật và chúng ta phải tháo gỡ cho doanh nghiệp tư nhân thực sự phát triển.

Nhà nước phải thấy được điều, nếu giải ngân đầu tư công tốt, giả định các điều kiện khác bình thường thì GDP tăng trưởng không chỉ 7,08% như năm vừa qua. Điều này phải nhìn rõ, quy trách nhiệm rõ và là nhiệm vụ cấp bách để tăng đầu tư công. Cơ hội mất đi sẽ không lấy lại được, tư nhân và Nhà nước nếu hợp lực thì cơ hội cho nền kinh tế sẽ lớn hơn nhiều nữa.

 

Xin cảm ơn ông!

 

Nguồn: Huyền Trang (thực hiện)

Từ chối
Chúng tôi sử dụng cookie để phục vụ tốt hơn.
Chấp nhận