Làn sóng FDI mới sẽ tạo ra cơ hội nào cho Việt Nam?

TS. VÕ TRÍ THÀNH, VIỆN TRƯỞNG VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC THƯƠNG HIỆU VÀ CẠNH TRANH KHẲNG ĐỊNH, NHỮNG CON SỐ TÍCH CỰC VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (FDI) TRONG 2 THÁNG ĐẦU NĂM 2024 CHO THẤY SỨC HẤP DẪN CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NGOẠI.

Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, tính đến ngày 20/2/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 4,29 tỷ USD, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 2,8 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2023.

Lũy kế đến ngày 20/2/2024, cả nước có 39.553 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 473,1 tỷ USD.

Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI ước đạt gần 300 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Những tín hiệu tích cực trong thu hút FDI đã tạo ra cho nền kinh tế các cơ hội mới trong quá trình phục hồi.

Xung quanh vấn đề này, PV Người Dẫn Đầu có cuộc trò chuyện với TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh.

Ông đánh giá như thế nào về tình hình thu hút FDI qua 2 tháng đầu năm?

Con số FDI 2 tháng đầu năm đã cho thấy những điểm mới tích cực trong thu hút đầu tư. Đây sẽ là tiền đề quan trọng trong quá trình phục hồi nền kinh tế.

Từ kết quả này, hướng về tương lai, Việt Nam vẫn đang tiếp tục thể hiện vị thế là một điểm đến đầu tư hấp dẫn. Các con số về thu hút FDI đã phản ánh sự quan tâm và tin tưởng liên tục của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiềm năng thị trường và môi trường kinh doanh của Việt Nam trong dài hạn.

Nhưng quá trình thu hút FDI cũng sẽ bộc lộ những hạn chế nhất định. Vậy đâu là điều chúng ta cần phải tránh, thưa ông?

Bài toán quan trọng nhất đối với Việt Nam hiện nay là tránh được “bẫy chi phí lao động thấp”, “bẫy thu nhập trung bình” và tạo xung lực mới thúc đẩy tăng trưởng dựa trên tăng năng suất và phát triển nhanh, bền vững.

Một hướng đi hết sức quan trọng ở đây là tối đa hóa hiệu quả trong thu hút FDI. Điều này phức tạp hơn nhiều mục tiêu tối đa hóa lượng vốn FDI.

Để tối đa hóa hiệu quả FDI, trước hết, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực tạo dựng một thể chế kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực/thông lệ tốt nhất có thể.

Vai trò, chức năng Nhà nước cần được định hình lại. “Chất” thị trường mạnh hơn, hội nhập sâu rộng hơn đồng nghĩa với sự thu hẹp khả năng sử dụng các công cụ can thiệp truyền thống.

Nhà nước phải chuyển trọng tâm sang kiến tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh, tiên liệu được; thúc đẩy tinh thần kinh doanh khuyến khích đầu tư và đổi mới/chuyển giao công nghệ; cải thiện kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Điều này vừa tạo sự hấp dẫn FDI có hiệu quả, vừa thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh.

Những vấn đề trên trực tiếp liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý, quy trình hành chính và xây dựng một bộ máy nhà nước chuyên nghiệp, có khả năng giải trình và dựa trên chế độ thực tài.

Những điều này quan trọng hơn nhiều so với các ưu đãi thuế. Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cũng cho thấy, ưu đãi thuế không phải là nhân tố có nhiều ý nghĩa trong thu hút FDI, và trong nhiều trường hợp còn gây ra sự phiền toái không cần thiết.

Trong cuộc chơi mới, các nhà đầu tư nước ngoài đóng vai trò là những doanh nghiệp đồng hành, hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước, lan tỏa và tạo thành chuỗi giá trị.

Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài thế hệ mới với tiêu chí hàng đầu là công nghệ, để có thể đưa doanh nghiệp trong nước trở thành vệ tinh, sản xuất các khâu phụ trợ và nắm bắt công nghệ cao từ doanh nghiệp FDI.

Muốn vậy, Việt Nam cũng không thể ngồi chờ nhà đầu tư nước ngoài tìm đến, mà cần chủ động hơn. Chúng ta cần những nhà đầu tư “chất lượng”, nền kinh tế, môi trường đầu tư, doanh nghiệp Việt cũng phải “chất lượng”.

Vậy làm thế nào để có thể lựa chọn được nhà đầu tư chất lượng, thưa ông?

Làn sóng FDI mới đang mở ra cơ hội rất đặc biệt cho Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Nguồn lực phát triển này chứa đựng trong nó tiềm năng tạo động lực to lớn để tạo những bước phát triển nhảy vọt.

Tôi cho rằng, để không lỡ nhịp “cuộc chơi lớn”, Việt Nam cũng phải kịp thời “tân trang” nguồn lực.

Trước tiên, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về thu hút FDI để nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn này.

Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao... thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm R&D tại Việt Nam.

Việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu với thuế suất 15% sẽ ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả của chính sách ưu đãi, thu hút FDI của Việt Nam. Điều này có thể gây xáo trộn chiến lược về địa điểm đầu tư và cách thức hoạt động của các công ty đa quốc gia. Do đó, Chính phủ cần đánh giá các gói hỗ trợ dành cho doanh nghiệp và đưa ra các biện pháp thay thế, giúp họ duy trì sự hiện diện sau khi áp dụng thuế này.

Hai là, phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ kết nối các tỉnh, vùng kinh tế tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài. Mở rộng các khu công nghiệp có quỹ đất sạch, cơ sở hạ tầng sẵn sàng để thu hút đầu tư

Ba là, nhân lực chất lượng cao chính là yêu cầu tất yếu, là động lực đột phá để Việt Nam rút ngắn khoảng cách, “đứng trên vai người khổng lồ” tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bốn là, kinh tế xanh, bền vững là xu hướng phát triển toàn cầu. Xu hướng này đòi hỏi không chỉ tư duy quản lý, điều hành, hoạch định chính sách của Việt Nam phải tốt, mà là sự phối hợp mọi khâu đầu - cuối trong chuỗi cung ứng - từ nguyên liệu đầu vào, cách thức sản xuất, cung ứng, phân phối sản phẩm… của mọi thành phần kinh tế phải đảm bảo thương hiệu Việt Nam.

Đây là những vấn đề quan trọng quyết định Việt Nam tiếp tục thu hút vốn FDI tới mức nào, thu hút vốn FDI chất lượng cao nhiều hay ít, ở tất cả các lĩnh vực.

Nhưng thu hút FDI cũng sẽ bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt là khi doanh nghiệp Việt chưa thực sự lớn mạnh, thưa ông?

Trên thực tế, tôi cho rằng, trong suốt quá trình cải cách, có những thời điểm, Việt Nam đã từng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Đứng trước cơ hội cận kề, chúng ta không thể tiếp tục lãng phí nguồn lực rất quan trọng, đó là thời gian. Thời gian là chi phí cơ hội, là điều để hôm nay bắt nhịp với ngày mai.

Đặc biệt, để chơi được với “nhà giàu”, phải có những con người Việt cụ thể, doanh nghiệp Việt cụ thể. Chính trị, chính sách sẽ chỉ mở đường, tạo sân chơi thuận lợi nhất có thể, bản thân doanh nghiệp phải lăn xả, làm chủ được cuộc chơi.

Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu hình thành khối kinh tế tư nhân với những doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ đủ chất lượng để có thể tham gia vào các công đoạn sản xuất của nhà đầu tư nước ngoài, bù đắp sự thiếu hụt linh kiện, trở thành môi trường hấp dẫn thu hút và giữ chân dòng vốn FDI, đồng hành cùng doanh nghiệp FDI trong chuỗi giá trị.

Cuối cùng, theo quan điểm của ông, làm thế nào để dòng vốn FDI lan tỏa trong nền kinh tế?

Việt Nam muốn phát triển kinh tế nhanh hơn, đặc biệt, muốn thu hút được nhiều nguồn vốn FDI, liên kết kinh tế là một giải pháp khá mới mẻ nhưng thiết thực và phù hợp với chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay.

Và quan trọng hơn cả là phải làm sao để thu hút vốn từ bên ngoài, trong đó có FDI, nhưng không gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Ở góc độ cá nhân, tôi cho rằng sẽ có bốn bài học cơ bản. Một là dòng vốn bên ngoài mang lại nhiều lợi ích và cả tác động tiêu cực, rủi ro bất ổn vĩ mô. Hai là việc đảm bảo sự nhất quán trong chính sách kinh tế vĩ mô (giữa cung tiền, tỷ giá, lãi suất) là cực kỳ cần thiết để giảm thiểu đầu cơ và nguy cơ khủng hoảng.

Ba là phản ứng chính sách thích hợp đối với sự bùng phát luồng vốn vào/ra nên gắn với chế độ tỷ giá linh hoạt, việc tăng cường giám sát tài chính và phối hợp chính sách, nhất là chính sách tài khóa.

Bốn là có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và những nhóm dễ bị tổn thương giảm phí tổn điều chỉnh, phí tổn tuân thủ khi đẩy mạnh hội nhập (như đào tạo/đào tạo lại, cung cấp thông tin, hỗ trợ pháp lý…).

Các vấn đề xã hội là sức ép và có thể gây khó cho việc thực thi các chính sách thích hợp cho ổn định kinh tế vĩ mô.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Trang Huyền (thực hiện)

Từ chối
Chúng tôi sử dụng cookie để phục vụ tốt hơn.
Chấp nhận