Trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định như hiện nay, ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết: Chính sách tiền tệ được giao khá nhiều nhiệm vụ và những nhiệm vụ này khó có thể đạt được cùng một lúc. Trong điều kiện đó, NHNN đã kiên định xuyên suốt với mục tiêu là giữ đại cục, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ; theo dõi sát diễn biến, tình hình để quyết định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, từng giai đoạn để ứng phó linh hoạt…
Lãi suất đang giảm nhanh, và sẽ còn giảm tiếp
Trong khi ngân hàng trung ương các nước đang khá thận trong trước các quyết định về lãi suất thì NHNN Việt Nam đã ba lần liên tiếp điều chỉnh lãi suất điều hành. Lý giải về những bước đi quyết liệt này, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết: Điều hành lãi suất được xem xét trong tổng thể điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo được đại cục về ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Theo Thống đốc, năm 2022, có hai lý do rất quan trọng để chúng ta phải chấp nhận mặt bằng lãi suất cao hơn, đó là lãi suất quốc tế đồng loạt tăng nhanh và mạnh; trong nước, lạm phát bình quân tăng 3,15%, tuy thấp so với mục tiêu nhưng vẫn cao hơn so với mức 1,84% năm 2021. Đặc biệt, trong nửa cuối năm 2022, lạm phát đang có xu hướng tăng nhanh từng tháng và đến cuối năm, lạm phát cơ bản bình quân đã khoảng 5% - cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của lạm phát năm 2021 là 0,84%. Chính vì vậy, điều hành không thể chủ quan với lạm phát.
Điểm thứ hai, theo Thống đốc, là áp lực mất giá của đồng Việt Nam rất lớn trong năm 2022 khi các nước thắt chặt chính sách tiền tệ và đồng USD tăng giá rất mạnh. Vào thời điểm tháng 9, tháng 10/2022, đồng Việt Nam áp lực mất giá lên đến 9-10%. Do đó, nếu chúng ta không có những giải pháp linh hoạt và đồng bộ thì khó có thể ổn định được mức tỷ giá chỉ mất giá 3,5% trong năm 2002. Nếu tỷ giá tăng cộng hưởng với mặt bằng giá thế giới tăng cao thì chi phí đầu vào sẽ tăng cao và chắc chắn lạm phát sẽ tăng cao, chưa kể đến doanh nghiệp Việt Nam cũng vay một lượng lớn vốn nước ngoài, nghĩa vụ trả nợ sẽ tăng lên và sẽ rất khó khăn...
Khi ổn định được tỷ giá trở lại và với điều kiện tăng chậm lại của lạm phát, trong những tháng đầu năm, NHNN đã rất quyết liệt và điều chỉnh ba lần mức lãi suất điều hành, đưa mặt bằng lãi suất của các khoản cho vay mới giảm khoảng 0,9% bình quân so với cuối năm 2021.
Cùng với quyết định giảm lãi suất điều hành, NHNN cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) duy trì mặt bằng lãi suất huy động ổn định, hợp lý, phù hợp với khả năng cân đối vốn, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh và năng lực quản lý rủi ro; không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tiền tệ và mặt bằng lãi suất thị trường. NHNN cũng khuyến khích TCTD tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thực tế sau hai đợt giảm lãi suất điều hành trước của NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh mạnh lãi suất huy động; một số NHTM cũng đồng thời giảm lãi suất cho vay. Đơn cử, Vietcombank có hai đợt giảm lãi suất rất lớn, đợt một giảm 0,5% cho 130.000 khách hàng, với số tiền lãi suất được giảm tương đương 800.000 tỷ đồng; đợt hai khoảng 110.000 khách hàng được giảm lãi suất cho vay với quy mô dư nợ được hạ lãi suất là khoảng 700.000 tỷ đồng. Ngoài các NHTM Nhà nước, khối NHTM cổ phần cũng đã giảm lãi suất cho vay từ 0,5-1%, tùy từng đối tượng khách hàng.
Ông Lê Quang Vinh, Phó Tổng Giám đốc Vietcombank, nhận định: Khi mặt bằng lãi suất huy động được giảm đồng đều thì đương nhiên lãi suất cho vay sẽ giảm tương ứng. Vietcombank cũng đang theo sát và sẽ khẩn trương triển khai đợt giảm lãi suất để đảm bảo đáp ứng đúng nhu cầu của nền kinh tế, của người dân, cũng như là hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển chung.
Lãi suất cho vay bình quân VNĐ hiện khoảng 9,3%/năm, giảm 0,9 so với cuối năm 2022. Trong khi đó, lãi suất huy động đã giảm từ đầu năm, đến nay, nhiều NHTM lớn đã đưa lãi suất huy động về dưới 7%/năm; mức lãi suất 8% đã trở nên “hiếm”. Như vậy, so với mức đỉnh trên 11%/năm (tháng 11/2022) thì lãi suất huy động đã giảm khá mạnh. Việc giảm lãi suất cho vay chậm hơn tốc độ giảm của lãi suất huy động là tất yếu. Bởi lẽ, lãi suất huy động đã có giai đoạn tăng nóng kéo dài suốt từ đầu năm 2022, đạt đỉnh vào tháng 11/2022 và có dấu hiệu giảm từ đầu năm nay. Do đó, các NHTM cần thêm thời gian để trung hòa vốn, từ đó có cơ sở giảm tiếp lãi suất cho vay.
Mặc dù đây đã là lần giảm lãi suất điều hành thứ ba liên tiếp của NHNN trong ba tháng gần đây (6/3; 3/4 và 23/5) song giới phân tích cho rằng, vẫn còn nhiều dư địa để nới lỏng chính sách tiền tệ hơn trong năm 2023. Dự báo, mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng sẽ về quanh ngưỡng 7%/năm và lãi suất cho vay bình quân sẽ về dưới 10%/năm. Nhận định này được đưa ra trên cơ sở lạm phát bình quân được kiểm soát quanh 4-4,5%, áp lực từ lạm phát toàn cầu và tỷ giá trong nước giảm dần; đồng thời, việc đứt gãy chuỗi cung ứng dần được cải thiện và giá hàng hoá thế giới giảm. Đặc biệt, có nhiều chỉ báo cho thấy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ sớm kết thúc chu kỳ tăng lãi suất vào cuối quý II/2023. Những yếu tố trên, cộng với mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế là những cơ sở để NHNN có thể sẽ tiếp tục giảm lãi suất điều hành.
“Những diễn biến trong sự đổ vỡ của ngân hàng SVB (Mỹ) vừa qua cũng như Credit Suisse (Thụy Sỹ) cho thấy ưu tiên đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng của NHNN và Chính phủ là một điều hết sức đúng đắn. Những giải pháp, liều lượng chính sách và thời điểm được NHNN cân nhắc rất kỹ lưỡng, tất cả để hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và tạo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân, không vì mục tiêu nào khác”
(Thống đốc Nguyễn Thị Hồng)
Khi nào cầu tín dụng tăng trở lại?
Tăng trưởng kinh tế trong nước quý I/2023 chỉ đạt 3,32%, thấp nhất so với cùng kỳ kể từ năm 2011 do cầu thế giới sụt giảm, cầu trong nước tăng yếu. Trong khi Chính phủ rất quyết liệt đốc thúc các bộ, ngành, địa phương trước nguy cơ tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu 6,5% thì các TCTD cũng khá sốt ruột khi tín dụng tăng thấp.
Theo công bố của NHNN, tính đến cuối tháng 5/2023, tín dụng chỉ tăng 3,17%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2022. Phân tích nguyên nhân cầu tín dụng thấp, NHNN cho rằng, về chủ trương ngân hàng vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi về mặt cơ chế, chính sách. Về phía các TCTD, những tháng đầu năm, dư địa về room tín dụng đã được NHNN phân bổ cho các TCTD trên cơ sở kế hoạch tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng 14%; bên cạnh đó, thanh khoản hệ thống được NHNN duy trì rất dư thừa. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, “không có lý do gì để các TCTD huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền trong khi doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn lại không cho vay...”.
Trước bối cảnh tăng trưởng kinh tế suy giảm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên tục có những chỉ đạo sát sao, tháo gỡ các “nút thắt” nhằm khôi phục sức cầu nền kinh tế. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký ban hành Công điện 469/CĐ-TTg về tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững. Tại văn bản này, Phó Thủ tướng yêu cầu NHNN tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, kịp thời thúc đẩy mở rộng tín dụng phù hợp với xu hướng lạm phát giảm và yêu cầu thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư dự án bất động sản, người mua nhà tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thống đốc NHNN cũng vừa ban hành Chỉ thị số 02 về tăng cường công tác tín dụng và triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn...
Có thể nói, các NHTM đang đứng trước nhiều sức ép, khi tăng trưởng tín dụng giảm, nợ xấu mới từ đợt gia hạn nợ và cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần trước (thực hiện từ 23/01/2020 đến 30/6/2022); và nay tiếp tục thực hiện giảm lãi suất cho vay, tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng (theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN là từ ngày 24/4/2023 đến hết ngày 30/6/2024). Khó khăn nhưng ngân hàng vẫn là một trong những ngành có khả năng tăng trưởng khả quan nhất khi các “nút thắt” trong nền kinh tế được tháo gỡ.
Đối với bất động sản - một trong những nút thắt hiện nay, thông thường, tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực này cao hơn so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng với những khó khăn của thị trường bất động sản, 70% là khó khăn về pháp lý. Do vậy, giải pháp là phải tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý, cộng với các doanh nghiệp cần phải rà soát để điều chỉnh giá bất động sản. Như vậy, sẽ kích thích tín dụng cho cả doanh nghiệp xây dựng cũng như người mua nhà.
Thứ hai, để kinh tế lấy lại đà tăng trưởng thì việc lãi suất giảm chỉ là yếu tố hỗ trợ, cải thiện sức cầu cả hàng hóa xuất khẩu và tiêu thụ trong nước là vấn đề quan trọng nhất lúc này. Đặc biệt, đầu tư công mới là động lực chính cho khôi phục sản xuất, kinh doanh, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế. Nhưng việc phân bổ, giao vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 vẫn chưa hoàn thành. Đến nay, Chính phủ mới trình Quốc hội để giao vốn còn lại 280.000 tỷ đồng. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước thanh toán vốn đầu tư công từ đầu năm đến hết ngày 31/5/2023 là 157.095,4 tỷ đồng, đạt 20,8% kế hoạch (đạt 22,22% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Tỷ lệ giải ngân kế hoạch vốn 4 tháng và ước 5 tháng đầu năm 2023 giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2022. Những tháng cuối năm, khi tốc độ giải ngân vốn đầu tư công nhanh hơn sẽ lan tỏa đến nhiều ngành, nghề, lĩnh vực, nhờ đó dòng tiền trong nền kinh tế cũng quay vòng nhanh hơn, cầu tín dụng ngân hàng cũng từ đó mà tăng trở lại...
Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận thực tế là có “nút thắt” khá lớn hiện nay nằm ở cơ chế chính sách. Trong khi chính sách tiền tệ cần độ trễ nhất định mới có tác động đến nền kinh tế thì chính sách tài khóa - vốn có nhiều giải pháp tác động lập tức đến thị trường lại chưa hữu dụng. Việc giảm thuế, phí để hỗ trợ doanh nghiệp chưa nhiều. Đơn cử đề xuất giảm 50% lệ phí trước bạ cho ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô được sản xuất, lắp ráp trong nước của Bộ Tài chính mới đang ở giai đoạn xây dựng dự thảo. Hay chủ trương giảm thuế VAT đến nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về thời gian, phạm vi áp dụng...
Nguồn: Vietcombank